Trên dòng Sêrêpôk hùng vĩ chảy qua Tây Nguyên, mô hình nuôi cá lăng đuôi đỏ (Hemibagrus microphthalmus) trong lồng bè đang nổi lên như một hướng đi kinh tế chiến lược, mang lại giá trị cao và cơ hội làm giàu cho người dân địa phương. Với những lợi thế tự nhiên vượt trội và giá trị thương phẩm của loài cá đặc sản này, việc nắm vững quy trình kỹ thuật thực chiến là yếu chìa khóa để khai thác thành công tiềm năng "vàng" từ dòng sông này.

Cá lăng đuôi đỏ trên sông Sêrêpốk. Ảnh: Haisan.online
Môi trường vàng và thực trạng phát triển
Sông Sêrêpốk, với đặc tính dòng chảy tương đối xiết, nguồn nước trong sạch và hàm lượng oxy hòa tan luôn ở mức cao (>5 mg/L), đã tạo ra một môi trường bán tự nhiên lý tưởng cho sự phát triển của cá lăng đuôi đỏ. Dòng chảy liên tục không chỉ cung cấp oxy mà còn giúp tự làm sạch lồng bè, giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm và dịch bệnh so với hình thức nuôi ao tù.
Thực tế tại các trung tâm nuôi lớn như huyện Cư Jut (Đắk Nông) và các xã ven sông ở Đắk Lắk đã chứng minh hiệu quả vượt trội của mô hình. Nhiều hộ nuôi đã đạt sản lượng từ 1-3 tấn/lồng (72 m³) sau 12-18 tháng, mang lại lợi nhuận ròng từ 100 đến 300 triệu đồng mỗi lồng. Thành công này còn đến từ sự hỗ trợ của chính quyền địa phương trong việc cung cấp kinh phí cho con giống và vật tư, khuyến khích người dân chuyển đổi từ khai thác sang nuôi trồng bền vững.
Nền tảng kỹ thuật: Lồng bè và lựa chọn con giống
Nền tảng của mô hình bắt đầu từ việc thiết kế và đặt lồng bè đúng kỹ thuật. Lồng nuôi thường có thể tích từ 24-72 m³, được làm từ khung sắt hoặc nhựa HDPE chắc chắn, đặt ở những khu vực có dòng chảy ổn định (0,2-0,5 m/s) và độ sâu trên 4 mét. Một chi tiết quan trọng là phải lắp đặt thêm các ống nhựa hoặc lưới bên trong để tạo nơi trú ẩn, mô phỏng tập tính tự nhiên của cá lăng.
Chất lượng con giống là yếu tố quyết định tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng. Người nuôi cần lựa chọn giống có kích cỡ đồng đều (từ 9,5-30 cm), khỏe mạnh, không dị hình từ các trại uy tín. Trước khi thả, cá giống bắt buộc phải được xử lý sát trùng bằng cách ngâm trong nước muối 2-3% và cân bằng nhiệt độ cẩn thận để tránh gây sốc. Với mật độ thả hợp lý khoảng 60-80 con/m³, tỷ lệ sống của đàn cá có thể đạt từ 70% đến 90%.
Lồng nuôi cá lăng đuôi đỏ trên sông Sêrêpốk. Ảnh: Báo Thanh Niên
Quản lý vận hành: Dinh dưỡng và chăm sóc thường nhật
Cá lăng đuôi đỏ là loài ăn tạp thiên về động vật, do đó chế độ dinh dưỡng cần được đảm bảo với hàm lượng đạm cao (>30%). Khẩu phần ăn lý tưởng là sự kết hợp giữa thức ăn công nghiệp và cá tạp tươi (chiếm 50-70% ở giai đoạn đầu). Để tối ưu hiệu quả và tránh lãng phí, việc cho ăn qua sàng (khay lưới) là bắt buộc. Kỹ thuật này giúp người nuôi kiểm soát chính xác lượng thức ăn tiêu thụ và điều chỉnh kịp thời, hạn chế ô nhiễm nguồn nước. Bữa ăn tối thường chiếm tỷ trọng lớn (40-50%) do cá lăng hoạt động mạnh về đêm.
Việc quản lý hàng ngày bao gồm vệ sinh lưới lồng định kỳ (1-2 lần/tháng) để đảm bảo lưu thông nước và kiểm tra sức khỏe của cá qua khả năng bắt mồi. Phòng bệnh là chiến lược ưu tiên, đặc biệt là bệnh nấm thủy mi do cá cọ xát vào lưới. Việc bổ sung Vitamin C và men tiêu hóa vào thức ăn sẽ giúp tăng cường sức đề kháng, giảm thiểu rủi ro dịch bệnh, nhất là trong mùa mưa lũ.
Thu hoạch và hiệu quả kinh tế thực tiễn
Sau thời gian nuôi từ 10 đến 18 tháng, cá có thể đạt trọng lượng thương phẩm từ 0,8 đến 3 kg/con . Cá biệt, nếu nuôi dài ngày (2-3 năm), cá có thể đạt kích cỡ "khủng" từ 30-100 kg, với giá bán lên tới 400.000-600.000 đồng/kg. Với chi phí đầu tư cho một lồng 72 m³ dao động từ 95-135 triệu đồng/vụ (trong đó thức ăn chiếm 60-70%), doanh thu có thể đạt từ 200-600 triệu đồng. Trừ đi chi phí, lợi nhuận thực tế mà người nuôi có thể thu về là 100-300 triệu đồng/lồng, một con số cực kỳ hấp dẫn.
Cá lăng đuôi đỏ có giá trị thương phẩm cao. Ảnh: fishbase.se
Thách thức và định hướng phát triển bền vững
Mặc dù có tiềm năng lớn, mô hình vẫn đối mặt với các thách thức không nhỏ như sự phụ thuộc vào nguồn giống, nguy cơ ô nhiễm từ thượng nguồn, và sự biến động của giá bán. Để phát triển bền vững, các giải pháp đồng bộ cần được triển khai.
Việc đầu tư vào công nghệ sinh sản nhân tạo tại địa phương sẽ giúp chủ động nguồn giống chất lượng. Đồng thời, xây dựng các hợp tác xã để ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm sẽ giúp ổn định đầu ra, tránh bị tư thương ép giá. Hướng đến các tiêu chuẩn như VietGAP và áp dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc sẽ là bước đi chiến lược để đưa cá lăng Sêrêpốk vươn ra các thị trường cao cấp và xuất khẩu.
Niềm tự hào của núi rừng
Mô hình nuôi cá lăng đuôi đỏ trên sông Sêrêpốk không chỉ là một câu chuyện về làm kinh tế, mà còn là một minh chứng cho sự kết hợp hài hòa giữa tiềm năng thiên nhiên và kỹ thuật của con người, đồng thời cũng là nỗ lực để đưa loài cá khổng lồ này trở lại sông Sêrêpốk. Dòng sông đã ban tặng một môi trường lý tưởng, nhưng chính sự đầu tư bài bản, quy trình chăm sóc kỷ luật và khả năng đối mặt với thách thức mới là yếu tố biến tiềm năng đó thành lợi nhuận bền vững.
Tương lai của ngành nuôi cá lăng tại đây sẽ không chỉ phụ thuộc vào việc nhân rộng số lượng lồng bè, mà còn nằm ở việc xây dựng một thương hiệu gắn liền với chất lượng và sự phát triển có trách nhiệm, để mỗi sản phẩm mang đi không chỉ là cá, mà còn là niềm tự hào của cả vùng đất Tây Nguyên.
Dũng
Theo Nguồn Báo Tép Bạc
Mọi chi tiết xin vui lòng liên hệ:
CÔNG TY TNHH THIẾT BỊ SONG LONG
Địa chỉ: Lầu 4, tòa nhà Tân Kỷ Nguyên, 43 Tản Đà, Phường Chợ Lớn, (Quận 5) TP.HCM
Điện thoại: (028) 38 539 616 - 19 hoặc (028) 38.539.625 ( Giờ hành chính )
Hotline: 0908 285 230 (Zalo) - 0902 802 330 (Zalo)
Email: sales@songlongvn.com quang.nguyen@songlongvn.com
Web: www.songlongvn.com www.slivn.com www.thegioithietbivn.com